Diễn đàn có sự tham gia của gần 200 đại biểu trực tiếp đến từ Bộ NN&PTNT, các địa phương, các hiệp hội ngành hàng, cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, người sản xuất, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, các chuyên gia trong và ngoài nước. Ngoài số đại biểu tham dự trực tiếp, diễn đàn cũng thu hút quý vị đại biểu tham gia trực tuyến tại hơn 200 điểm cầu về tình hình kết nối, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và các sản phẩm chế biến.
Diễn đàn thu hút đông đảo các doanh nghiệp tham dự
Theo Bộ NN&PTNT, sau 3 năm thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tính đến nay đã có 57/63 tỉnh, thành phố triển khai và nông nghiệp hữu cơ đang lan tỏa ngày càng mạnh mẽ trên khắp cả nước.
Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Nguyễn Ngọc Thạch, Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam cho biết: Hiện nay, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang lan tỏa ngày càng mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.
Năm 2021, diện tích đất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã đạt trên 174 ngàn ha, tăng 47% so với năm 2016, đứng thứ 9/10 nước có diện tích đất nông nghiệp hữu cơ lớn nhất châu Á. Trong đó, diện tích đất trồng trọt hữu cơ hơn 63 ngàn ha, diện tích nuôi trồng thủy sản hữu cơ hơn 100 ngàn ha, diện tích thu hái tự nhiên nông nghiệp hữu cơ hơn 12 ngàn ha. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt 335 triệu USD/năm, xuất khẩu tới 180 nước trên thế giới, hơn 17 ngàn nhà sản xuất, 555 nhà chế biến, 60 nhà xuất khẩu nông nghiệp hữu cơ…
Các doanh nghiệp ký kết hợp tác tại diễn đàn
Chia sẻ về xu hướng tiêu dùng sản phẩm hữu cơ thế giới, ông Nguyễn Minh Tiến - Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại nông nghiệp cho rằng, người tiêu dùng đang dần nhận thức rõ tầm quan trọng của sản phẩm hữu cơ đối với môi trường, sức khỏe con người và tạo ra hệ sinh thái bền vững, nhất là trong bối cảnh hậu Covid-19.
Theo ông Tiến, doanh số bán lẻ sản phẩm hữu cơ (thực phẩm và đồ uống hữu cơ) trên toàn cầu đã tăng 15% lên 129 tỷ USD vào năm 2020. Thị trường sản phẩm hữu cơ (SPHC) đã tăng mạnh lên 188 tỷ USD vào năm 2021, và ước đạt 208 tỷ USD năm 2022. Bắc Mỹ và Châu Âu chiếm hầu hết doanh số bán hàng, với 90% thị phần. Tuy nhiên, hầu hết tăng trưởng đến từ các khu vực khác, đặc biệt là châu Á.
Thị trường SPHC đang trở nên quan trọng ở các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,… Thị trường này vẫn chủ yếu là rau quả hữu cơ, trong đó trái cây nhiệt đới, các loại hạt và gia vị chiếm tỷ lệ chính. Đặc biệt, những nông sản này đều là những mặt hàng xuất khẩu chính và có lợi thế của Việt Nam.
Ông Bùi Hồng Quân, Phó Chủ tịch HĐQT Vinamit
TS. Nguyễn Văn Kiền, Giảng viên chính (danh dự), Đại học Quốc gia Úc, đồng thời là Giám đốc Công ty TNHH Mekong Organics cho biết, doanh số bán lẻ nông sản hữu cơ tại Úc đã tăng lên hơn 2,5 tỷ đô la Úc (AUD). Thị trường về hữu cơ của Úc tăng trên 5% mỗi năm và đặc biệt có những năm tăng trên 10%. Tuy nhiên, nguồn cung sản phẩm hữu cơ vào Úc đang khá khiêm tốn.
Chia sẽ về cơ hội cho nông sản hữu cơ chế biến vào thị trường Úc, ông Kiền cho biết, gạo là mặt hàng có cơ hội tốt nhất nhờ nhu cầu gạo hữu cơ vượt xa nguồn cung. Các sản phẩm trái cây, rau quả chế biến hưởng lợi thế quy định thuận lợi, trong khi các mặt hàng như hạt điều, macca vào thị trường này cần được xử lý cacbon dioxide trong khi hai mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam gồm cà phê và hồ tiêu tại thị trường này sẽ gặp nhiều khó khăn do thừa nguồn cung. Ông Kiền cũng cho biết, các mặt hàng cá, tôm, các loại thảo mộc và gia vị khô như húng quế, quế... sẽ có triển vọng phát triển tốt tại thị trường này.
Theo TS. Nguyễn Văn Kiền, thông qua mạng lưới đào tạo do Công ty TNHH Mekong Organics tổ chức trong khuôn khổ dự án “Thúc đẩy chứng nhận và thương mại nông sản phẩm hữu cơ Úc-Việt”, cho thấy khá nhiều doanh Nghiệp vừa và nhỏ đã thực hiện chứng nhận hữu cơ theo các tiêu chuẩn Quốc tế để xuất khẩu sang các thị trường khó tính.
Ông Phạm Minh Đức, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Giám đốc điều hành Công ty EColink
Ông Phạm Minh Đức - Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam - Giám đốc Điều hành Ecolink cho biết: Giai đoạn trước Nghị định 109 năm 2018, có hai thời kỳ nhỏ: 2000 đến 2010, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn âm thầm làm sản phẩm hữu cơ cho doanh nghiệp châu Âu. Thực chất đây là các doanh nghiệp mua hàng về đóng gói. “Năm 2008, khi sang châu Âu, chúng tôi nhận thấy chè Việt Nam không có tiếng tốt về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Thậm chí đến bây giờ, các đối tác lần đầu làm với chúng tôi cũng đều kiểm tra rất kỹ, dẫn đến doanh nghiệp phải tốn kém nhiều trong khâu xét nghiệm”, ông Đức thông tin. Kinh nghiệm của ông Đức là chè ở vùng sâu vùng xa thì đạt chất lượng tốt. Ví dụ như chè Shan tuyết ở Hà Giang dễ thành công hơn chè ở Thái Nguyên.
Từ năm 2018, doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu thực sự làm chủ. Cũng trong giai đoạn này, một số doanh nghiệp lớn như Vinamilk hay TH bắt đầu chuyển một phần sản phẩm sang làm hữu cơ. Tuy nhiên, thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam hiện còn nhỏ, khó xâm nhập thị trường châu Âu. “Do đó, chúng tôi cho rằng hướng đi vào thị trường trong nước sẽ dễ hơn. Tất nhiên, uy tín, danh tiếng sản phẩm hữu cơ xuất xứ từ Việt Nam ở thị trường thế giới đã đi lên được một chút. Từ 2018 đến 2022, có 164 doanh nghiệp với 200 sản phẩm đang có chứng nhận USDA của Mỹ”, ông Đức phân tích.
Chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hữu cơ, ông Bùi Hồng Quân - Phó Chủ tịch HĐQT Vinamit cho rằng, để làm nông nghiệp hữu cơ thực chất, điều quan trọng là doanh nghiệp phải đảm bảo uy tín, thực hiện đúng cam kết về chất lượng, mẫu mã khi tới tay nhà phân phối và người tiêu dùng.
Doanh nghiệp khi làm hữu cơ đòi hỏi phải thực sự tâm huyết, giữ uy tín, bởi khi bắt đầu sẽ gặp rất nhiều khó khăn như thiếu chuyên gia, chuyên viên kỹ thuật cao, kinh phí, vốn đầu tư,... Đây sẽ là thách thức rất lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp khi mới bắt tay làm nông nghiệp hữu cơ. Ông Quân cũng thẳng thắn chia sẻ, hiện nay, Vinamit vẫn chưa thể tin tưởng được một số nhà cung cấp do nhiều đơn vị chưa đảm bảo đúng theo cam kết ban đầu.
Ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Quế Lâm
Theo ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Quế Lâm, nút thắt trong phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện nay nổi lên 4 vấn đề: Thiếu lòng tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp, người nông dân; khai thác tài nguyên đến mức cạn kiệt; ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, sức khỏe người sản xuất; sức khỏe người tiêu dung, cây trồng, vật nuôi. Chỉ khi nào giải quyết được những vấn đề này thì nông nghiệp hữu cơ mới có thể coi là thực sự thành công.
Phát triển nông nghiệp hữu cơ rất khó khăn, vất vả, nếu không có sự hi sinh từ các thành tố liên quan sẽ không thể làm được. “Để tạo hệ sinh thái nông nghiệp hữu cơ, doanh nghiệp, người nông dân, người tiêu dùng đều phải hi sinh. Chúng ta muốn tồn tại phải nhờ vào hoạt động sản xuất của người nông dân; nông dân càng khỏe mạnh thì doanh nghiệp, người tiêu dùng càng khỏe mạnh. Ngược lại, người nông dân phải biết tri ân doanh nghiệp, người tiêu dùng bằng việc chuyên tâm sản xuất ra những sản phẩm chất lượng, an toàn. Có như vậy mối liên kết mới bền chặt, hệ sinh thái nông nghiệp hữu cơ mới ngày càng được mở rộng”, ông Lam chia sẻ.
Ông Lê Khắc Cương, Tổng Giám đốc Công ty CP nông nghiệp ứng dụng Công nghệ cao Quốc tế TH Group
Ông Lê Khắc Cương - Tổng giám đốc Công ty CP nông nghiệp ứng dụng Công nghệ cao Quốc tế TH Group cho biết, theo khảo sát của TH, trong 5-10 năm trở lại đây, người tiêu dùng quan tâm nhiều đến sản phẩm hữu cơ, không đơn thuần chỉ là sản phẩm sạch.
Tập đoàn TH đang áp dụng công nghệ đầu cuối trong trồng trọt, chăn nuôi bò sữa quy mô lớn. TH bắt đầu quan tâm đến hữu cơ từ năm 2015. Tháng 2/2015, rau sạch của TH được cấp tiêu chuẩn hữu cơ của EU và Mỹ. Để có được điều này, TH cho biết đã phải “tốn rất nhiều thời gian”. Mặt khác, do yếu tố lịch sử, đất của TH do các nông trường để lại, tồn dư nhiều thuốc bảo vệ thực vật làm “chai” đất, độ PH chỉ 3-4. Sau nhiều năm cải tạo, bón phân bò đến 15cm, kiên trì 5-7 năm để đạt được độ PH trung tính (6,5-7).
“Những cánh đồng xanh hiện tại của TH không có phân bón hóa học. Để cho bò ăn, khá tốn kém do phải bảo đảm diện tích đi lại và ăn cỏ. Không dễ, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng. Đến tháng 7/2015, TH được công nhận có sản phẩm sữa bò hữu cơ cũng đạt chuẩn của EU và Mỹ. Bò ăn hoàn toàn các sản phẩm hữu cơ, điều đáng nói là chi phí rất đắt. Để được chứng nhận hữu cơ là chặng đường gian nan, tốn kém. Do đó, nếu ai nói sản phẩm hữu cơ vì sao đắt, thì cần hiểu chúng tôi đã bỏ vào đó bao nhiêu nhân tài, vật lực”. Ông Cương cho biết thêm.
Ông Nguyễn Mnh Tiến, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại nông nghiệp
Chia sẻ tại diễn đàn, ông Nguyễn Hoàng Anh - Tổng giám đốc Công ty TNHH Đầu tư Thuỷ sản Nam Miền Trung cho rằng, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang gặp rất nhiều thách thức về giá vật tư, nhân công, lợi nhuận, sản lượng,… Đặc biệt là sự thiếu đồng bộ trong sản xuất giữa các khâu.
“Mong rằng Bộ NN&PTNT sẽ cùng các cơ quan chức năng có thẩm quyền xây dựng cơ chế bảo vệ an ninh ngành hàng từ kiểm soát quy chuẩn, hạn ngạch, công nghệ,… Có như vậy, người nông dân, doanh nghiệp sẽ không thể làm lộn xộn hay thiếu đồng bộ”, ông Hoàng Anh kiến nghị.
Theo ông Paul Le, Phó Chủ tịch Tập đoàn Central Retail, thực tế cho thấy đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ tiêu dùng, sản xuất sản phẩm thông thường sang sản phẩm sạch, hữu cơ và tốt cho sức khỏe.
"Đại dịch Covid-19 chính là đòn bẩy để những người tiêu dùng như chúng ta chú ý hơn tới sản phẩm tốt cho sức khỏe và cũng trong khoảng thời gian giãn cách xã hội, chúng ta có nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về các vấn đề sức khỏe, tăng sức mua các sản phẩm tốt cho sức khỏe như sản phẩm hữu cơ", ông Paul Lê chia sẻ.
Quay trở lại vấn đề về tiêu thụ sản phẩm hữu cơ, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng đây là một xu thế tiêu dùng tất yếu. Trước tiên với sự phát triển của Việt Nam, sự gia tăng dân số nhanh chóng với nhóm tuổi từ 15 đến 40 ngày càng mở rộng (khoảng 40 triệu người) đang ngày càng nhạy cảm với các sản phẩm tốt cho sức khỏe và sẵn sàng chi tiêu để có được những sản phẩm này.
Tầng lớp trung lưu của Việt Nam sẽ chiếm khoảng 25 triệu người vào năm 2025, chiếm 25% dân số. Tầng lớp này có thể hiểu, và cảm thấy việc tiêu thụ những sản phẩm hữu cơ để sử dụng hàng ngày là một nhu cầu quan trọng.
Ông Pau Le cho biết, với sự thay đổi của hành vi người tiêu dùng thế giới, người nông dân Việt Nam cần tập trung sản xuất tốt, tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn hữu cơ phù hợp với nhu cầu của người dân trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, giá cả của sản phẩm organic sẽ giảm xuống, phù hợp với khả năng của số đông người tiêu dùng.
Ông Nguyễn Ngọc Luân - Giám đốc HTX Nông nghiệp Lâm San - cho rằng thế mạnh hữu cơ Việt Nam nằm ở trồng trọt, không ở chăn nuôi. Bác bỏ một phần ý kiến của các đại biểu đã phát biểu tham luận trước đó, ông Luân khẳng định “nếu có thị trường, nông dân tụi tui làm được hết”.
Ông Paul Le, Phó Chủ tịch Tập đoàn Central Retail
Về cách làm cụ thể, ông Luân nói “không cần xin Nhà nước đất”, mà làm việc trực tiếp với từng hộ nông dân. Đối thoại với ông Paul Lê, ông Luân khẳng định chắc chắn sẽ đáp ứng các yêu cầu hữu cơ, chỉ cần có thị trường, và sẵn sàng “đưa sản phẩm thành số một”.
Về chính sách, ông Luân nói hợp tác xã “cần đứng đầu chuỗi nông nghiệp hữu cơ”. Lãnh đạo HTX Nông nghiệp Lâm San nhắn nhủ người tiêu dùng: “Tiêu thụ sản phẩm hữu cơ là góp phần giảm phát thải khí CO2, đầu tư cho thế hệ tương lai khỏi bị ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu”.
Bà Bùi Thị Hạnh Hiếu, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Kinh doanh Chế biến nông sản Bảo Minh chia sẻ: Tiềm năng, thế mạnh để sản xuất sản phẩm lúa hữu cơ của Việt Nam còn rất lớn, nhất là khu vực Tây Bắc và Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn hiện nay là nhiều doanh nghiệp, trong đó có Bảo Minh đã xây dựng được vùng nguyên liệu lúa đạt tiêu chuẩn hữu cơ USDA nhưng nhà máy chưa đạt tiêu chuẩn nên vẫn phải mua nguyên liệu hữu cơ với giá cao hơn 60% và bán giá thường.
Trên cơ sở đó, bà Hiếu kiến nghị: Các cơ quan quản lý Nhà nước phải cùng nhau vào cuộc, quy định rõ vùng nguyên liệu tại đâu được hưởng chính sách nào. Bên cạnh đó, giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giao đất xây dựng nhà máy; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn “mua nguyên liệu giá hữu cơ, bán sản phẩm giá thường” như hiện nay.
Bà Từ Thị Tuyết Nhung, Trưởng ban điều phối PGS Việt Nam cho biết, nông dân sản xuất nhỏ lẻ phải tự bươn chải, phải làm theo các thương lái mà họ đã liên kết. Từ đó, dẫn đến vấn nạn mất vệ sinh an toàn thực phẩm.
"Chúng tôi vận dụng hệ thống gồm các bên như nông dân, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp có định hướng tốt, chính quyền địa phương, hội phụ nữ, hội nông dân, tham gia một cách tự nguyện để giám sát. Đưa nông dân vào một chuẩn nhận thức đã rất khó, nên cửa hàng tiếp cận thị trường nếu có sai sót sẽ ảnh hưởng tới cả chuỗi. Vì thế, khi chọn đối tác kết nối thị trường, chúng tôi luôn đặt cho họ nhiệm vụ chăm sóc khách hàng, giải thích cho khách hàng hiểu thế nào là hữu cơ", Trưởng ban điều phối PGS Việt Nam nói.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (bên phải)
Kết luận diễn đàn, ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) cho biết sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là một sản phẩm có phân khúc đặc thù về nhu cầu thị trường, giá trị định vị thương hiệu. Bên cạnh đó, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ mang nhiều giá trị trong đó có giá trị tái tạo môi trường, trách nhiệm bảo vệ con người (người sản xuất, người phân phối, người tiêu dùng) và trách nhiệm chung với tăng trưởng xanh của ngành nông nghiệp.
Từ những ý kiến, tham luận của đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp,... tham dự diễn đàn, ông Toản tổng kết những khó khăn mà nông nghiệp hữu cơ phải khắc phục như xây dựng lòng tin của người tiêu dùng với sảm phẩm hữu cơ; hư khó khăn về mặt chính sách, tham mưu; điều kiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên diện rộng còn hạn chế; khái niệm nông nghiệp hữu cơ được định nghĩa chưa đúng tại nút thắt về lòng tin của người tiêu dùng; khó khăn về hợp lực ngành hàng để cùng nhau đi xa hơn, ở quy mô lớn hơn trong câu chuyện về thị trường. Tuy nhiên theo ông Toản, những khó khăn này chính là yếu tố tạo ra giá trị của nông nghiệp hữu cơ.
“Chúng tôi thấy rằng cần phải cùng nhận thức làm đúng về mặt sản xuất, tiêu dùng, chia sẻ thông tin. Cần truyền thông minh bạch, rõ ràng, trách nhiệm. Hoàn thiện chuỗi nông sản hữu cơ; hoàn thiện chính sách liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến nông cộng đồng, mô hình, thị trường; đầu vào và đầu ra phải minh bạch (phân bón, lưu thông, nhãn mác...)”, ông Toản nói.
Tại diễn đàn, ông Toản cho rằng vẫn còn dư địa để thảo luận nhiều hơn về sản phẩm du lịch nông nghiệp hữu cơ là sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ để gắn với vấn đề bản địa, hệ thống phân phối, đặc biệt là ở trong nước. Một điều quan trọng nữa là cần truy xuất nguồn gốc, minh bạch hóa, số hóa sản phẩm hữu cơ; luôn chủ động đón nhận sự thay đổi về xu hướng tiêu dùng; lựa chọn sản phẩm trở thành lợi thế của Việt Nam cho nông nghiệp hữu cơ và hình thành một hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn, thực phẩm minh bạch của nông nghiệp hữu cơ với sự tham gia của hiệp hội.